Trong các ngày 28-29/7, Trường Đại học (ĐH) Công nghệ thông tin và Truyền thông (CNTT&TT) Việt-Hàn (VKU), Đại học Đà Nẵng (ĐHĐN) chủ trì, phối hợp với  Hiệp hội các Khoa-Trường-Viện CNTT&TT (FISU Việt Nam) tổ chức Hội thảo Khoa học CNTT và ứng dụng trong các lĩnh vực lần thứ 12 (Conference on Information Technology and its Applications, CITA-2023).

Phát triển du lịch góp phần tạo dựng hình ảnh tỉnh Đồng Tháp

Cập nhật ngày: 23/01/2024 05:21:55

ĐTO - Định vị hình ảnh địa phương gắn với 6 trụ cột trọng tâm phát triển của tỉnh là chính quyền, du lịch, nông nghiệp, cơ hội đầu tư, cộng đồng dân cư và cộng đồng doanh nghiệp. Từ đó, góp phần tạo dựng hình ảnh tỉnh Đồng Tháp nhất quán, xây dựng thương hiệu Đồng Tháp với định vị rõ ràng, hấp dẫn và độc đáo dựa trên những điều kiện kinh tế đặc thù, lợi thế, giá trị văn hóa, lịch sử, con người và tài nguyên thiên nhiên khác biệt.

Phấn đấu đến năm 2027, hoàn thành xây dựng hệ thống chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc trưng của tỉnh, trong đó có sản phẩm “Quýt hồng Lai Vung”

Phê duyệt Đề án phát triển du lịch góp phần tạo dựng hình ảnh tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2023 - 2025, định hướng đến năm 2030, UBND tỉnh xác định, đến năm 2025, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống nhận diện thương hiệu giai đoạn mới trên địa bàn tỉnh, có biểu tượng, thông điệp quảng bá, biểu ngữ hình ảnh đại diện cho toàn hệ thống chính trị, biểu ngữ cổ động tuyên truyền trên toàn địa bàn tỉnh. Phấn đấu đến năm 2027, hoàn thành xây dựng hệ thống chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc trưng của tỉnh như: “Sen Tháp Mười”, “Xoài Cao Lãnh”, “Cá tra Hồng Ngự”, “Hoa Sa Đéc”, “Quýt hồng Lai Vung”, “Nhãn Châu Thành”... từ đó xây dựng Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc nông sản tỉnh và có cơ sở xúc tiến, quảng bá ra thị trường thế giới. Phấn đấu đến năm 2030, tỉnh Đồng Tháp trở thành điểm đến có thương hiệu mạnh của cả 6 trụ cột trọng tâm phát triển, có sức cạnh tranh lớn trong vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trong thời gian tới, tỉnh sẽ phát triển 4 không gian du lịch, gồm: Không gian du lịch Đất Sen Hồng, lấy vùng trung tâm TP Cao Lãnh làm động lực phát triển các hoạt động du lịch, văn hóa, kinh tế. Không gian du lịch Sắc màu vùng biên (gồm TP Hồng Ngự và 2 huyện Hồng Ngự, Tân Hồng), trọng tâm phát triển du lịch tại TP Hồng Ngự với các loại hình: du lịch chính quyền, du lịch văn hóa, du lịch nông nghiệp, du lịch làng nghề, du lịch ẩm thực, du lịch MICE. Không gian du lịch thủ phủ hoa (gồm TP Sa Đéc và các huyện Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành), lấy TP Sa Đéc làm trọng tâm kết nối trong phát triển du lịch nông nghiệp (du lịch miệt vườn, du lịch làng nghề), du lịch chính quyền, du lịch sinh thái tại TP Sa Đéc và du lịch nông nghiệp, du lịch ẩm thực tại các huyện: Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành. Không gian du lịch Sen Tháp Mười (gồm các huyện: Tam Nông, Thanh Bình, Cao Lãnh, Tháp Mười) được xem là thủ phủ sinh thái - nông nghiệp cùng vùng dự trữ tự nhiên Đồng Tháp Mười sẽ tập trung phát triển du lịch sinh thái gắn với Vườn Quốc gia Tràm Chim, Khu du lịch Gáo Giồng, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch tâm linh gắn với Khu di tích Gò Tháp, Khu di tích Xẻo Quít... Gắn với 13 loại hình du lịch theo thứ tự ưu tiên như: du lịch chính quyền, du lịch văn hóa - lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, du lịch sông nước, du lịch cộng đồng, du lịch đêm, du lịch MICE, du lịch ẩm thực, du lịch tâm linh, du lịch chăm sóc sức khỏe, du lịch mua sắm và du lịch biên mậu.

Tỉnh Đồng Tháp cũng xác định 7 bộ sản phẩm du lịch nông nghiệp là “Tui làm nông dân xứ Sen hồng”, “Kể chuyện nhà nông”, “Làng hoa Sa Đéc - Hương sắc trăm năm”, “Tháp Mười - Vương quốc sen hồng”, “Cao Lãnh - Xứ sở xoài”, “Lai Vung - Thế giới quýt hồng”, “Hồng Ngự - Thủ phủ cá tra”; 4 sản phẩm du lịch sinh thái là “Sân chim Đồng Tháp”, “Chèo thuyền và khám phá hệ sinh thái ngập nước”, “Du lịch sinh thái kết hợp nghiên cứu chuyên đề”, “Câu cá dã ngoại”; 4 sản phẩm du lịch văn hóa: trải nghiệm văn hóa Óc Eo tại Khu di tích Gò Tháp, “Khám phá Vương quốc Phù Nam về đêm”, trải nghiệm văn hóa Làng Hòa An kết hợp y học cổ truyền, Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc và trải nghiệm tham quan văn hóa tại các di tích lịch sử, văn hóa khác (đình làng, nhà cổ); 4 sản phẩm du lịch tâm linh: Khu di tích Gò Tháp, Khu du tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Khu du lịch văn hóa Phương Nam và một số điểm di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật khác.

Song song đó, tỉnh tập trung phát triển các loại hình về du lịch chính quyền, du lịch chăm sóc sức khỏe, du lịch cộng đồng, du lịch làng nghề, du lịch sông nước, du lịch “Trải nghiệm cuộc sống vượt thời gian”, Phố đi bộ và chợ đêm; dù lượn, tàu lướt, khinh khí cầu trên đồng cỏ; cắm trại cao cấp, đu dây... Đồng thời phát triển 3 tuyến du lịch nội vùng, 6 tuyến du lịch liên vùng và 2 tuyến du lịch quốc tế, gồm có tuyến đường bộ Đồng Tháp - Cửa khẩu Dinh Bà/Cửa khẩu Thường Phước - tỉnh PrâyVeng (Vương quốc Campuchia) và tuyến đường thủy TP Hồ Chí Minh - Mỹ Tho - Sa Đéc - Làng bè Bình Thạnh - Cồn Long Khánh - Cồn Chính Sách (tỉnh Đồng Tháp) - tỉnh An Giang - Vương quốc Campuchia.

Đối với thị trường khách du lịch quốc tế, duy trì và thúc đẩy tăng trưởng các thị trường truyền thống như: Nhật, Mỹ, Úc, Hàn Quốc, Pháp, Anh... Đối với thị trường khách du lịch nội địa, duy trì các thị trường truyền thống gần từ TP Hồ Chí Minh và các tỉnh nội vùng, các tỉnh Đông Nam Bộ... Tập trung đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, hoàn thiện sản phẩm du lịch đặc trưng, phát triển cơ sở vật chất, dịch vụ đồng bộ cả về chất lượng và số lượng. Định hướng phát triển nguồn nhân lực, nhất là các chương trình đào tạo tại chỗ, đào tạo lại, kết hợp tập huấn đào tạo ngắn hạn. Phát triển các lễ hội Festival Hoa - Kiểng, Lễ hội Sen, Lễ hội Gò Tháp, Lễ hội Xoài, Lễ hội Cá tra... Tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch trong và ngoài nước, nhất là các thị trường trọng điểm; đẩy mạnh ứng dụng tiếp thị trực tuyến trong xúc tiến du lịch, tăng cường hoạt động du lịch thông minh; nghiên cứu xây dựng các sàn giao dịch trực tuyến, tổ chức các sự kiện, lễ hội đặc trưng, đăng cai các diễn đàn, hội nghị... để tạo tính lan tỏa mạnh mẽ, thu hút khách du lịch và nhà đầu tư đến với Đồng Tháp.

Trung tâm Pháp y Hà Nội (TTPYHN) như nhiều cơ quan giám định pháp y khác trên cả nước, đã và đang đối mặt với vấn đề thiếu hụt về nhân sự. Theo Giám đốc TTPYHN - bà Nguyễn Thị Ngọc Yến, hiện Trung tâm có 15 bác sĩ với rất nhiều đầu việc như: giám định pháp y thương tích; xác định nguyên nhân gây tử vong; giám định pháp y tình dục; giám định ADN; giám định hóa pháp, độc chất; khám sức khỏe tiền hôn nhân... Với nguồn nhân lực này, tương lai tới đây, khi ngành pháp y ngày càng phát triển, thì sẽ thiếu rất nhiều.

Tại Viện Pháp y quốc gia, cơ quan quản lý nhà nước đầu ngành về hoạt động giám định pháp y trong ngành Y tế, thực tế cũng rất khó khăn trong vấn đề nhân lực. Trong vòng 10 năm trở lại đây, lãnh đạo Viện cũng đã không ít lần chứng kiến những cán bộ mới tuyển dụng “dứt áo ra đi” vì lý do gia đình không nhất trí với nghề nghiệp hoặc do chế độ đãi ngộ của ngành chưa cao... Điều này cũng không mấy khó hiểu, đơn cử như câu chuyện của bác sĩ Đào Công Giang, hiện công tác tại Khoa Giám định tổng hợp, TTPYHN. Bác sĩ Giang vốn sinh trưởng trong gia đình có bố là bác sĩ/giám định viên pháp y công tác tại Trung tâm Pháp y tỉnh Tuyên Quang, nhưng khi bác sĩ Giang quyết định theo nghề pháp y cũng không nhận được sự ủng hộ hoàn toàn từ gia đình.

“Lâu nay, nhân lực pháp y luôn là câu chuyện khiến những người trong nghề lo lắng, dù thời gian gần đây, với các chính sách, pháp luật như: Đề án 319 năm 2013 của Chính phủ khuyến khích đào tạo nhân lực y tế các chuyên ngành, trong đó có pháp y; Điều 105 Luật Khám, chữa bệnh năm 2023 có hiệu lực từ 1/1/2024; Nghị định số 97/2023/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 quy định Nhà nước hỗ trợ toàn bộ học phí, chi phí sinh hoạt đối với người học chuyên ngành tâm thần, giải phẫu bệnh, pháp y, pháp y tâm thần..., khó khăn đã được hóa giải phần nào. Tôi rất mong tới đây sẽ có được nhiều sự quan tâm hơn nữa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như sự thay đổi nhận thức xã hội để các cơ quan giám định có nhiều cơ hội thu hút nguồn nhân lực có chuyên môn cao về làm công việc “bác sĩ của pháp luật” này”, theo Giám đốc TTPYHN.

Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp và Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 17/5/2024, báo cáo của Bộ Y tế cho thấy, nhân lực pháp y toàn ngành Y tế gồm 1.053 người, trong đó tại Viện Pháp y Quốc gia là 90 người, tại các tổ chức pháp y 63 tỉnh, thành phố là 963 người. Tổng số giám định viên (GĐV) pháp y ngành Y tế từ trung ương đến địa phương là 270 GĐV, bao gồm cả GĐV chuyên trách và kiêm nhiệm... Đánh giá về vấn đề nhân lực, Bộ Y tế cho biết, các trung tâm pháp y các tỉnh, thành phố hầu hết thiếu nhân lực. Nhu cầu bổ sung GĐV ở thời điểm hiện tại lên tới 50% số hiện có và dự kiến nhu cầu đến năm 2030 gấp đôi lực lượng hiện tại.

“Sớm có chính sách thu hút các bác sĩ chính quy về công tác tại các cơ sở giám định pháp y, bao gồm các chính sách của địa phương và của Chính phủ” - là đề xuất của ngành Y tế với vấn đề nhân sự pháp y. Ở góc độ tổ chức pháp y tỉnh thành, bà Nguyễn Thị Ngọc Yến - Giám đốc TTPYHN nêu quan điểm: “Thực tế hiện nay hầu như rất ít người muốn làm GĐV pháp y nhất là người có trình độ chuyên môn cao vì tính chất phức tạp, liên quan nhiều đến pháp luật. Do vậy, cần có cơ chế phù hợp để thu hút nhân tài cho lĩnh vực này. Luật Giám định tư pháp đã đi vào thực tiễn 12 năm. Sự phát triển, biến động không ngừng của xã hội hiện đại, nhiều tình huống trong thực tế phát sinh nên đặt ra vấn đề cần phải sửa đổi luật cho sát với yêu cầu thực tiễn. Việc nâng cao chất lượng GĐV tư pháp nói chung và pháp y nói riêng là vấn đề cần phải đặt lên hàng đầu”.

Nhiều vấn đề cần sớm quan tâm giải quyết để hoạt động giám định pháp y có thể phục vụ tốt hơn nữa cho hoạt động tố tụng, thượng tôn pháp luật. (Nguồn: shutterstock.com)

Tính độc lập và cơ chế phối hợp - hai vấn đề quan trọng để pháp y phát triển

Cũng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp và Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp do Bộ Tư pháp tổ chức, báo cáo của Bộ Tư pháp cho thấy, ở giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018, khi Luật Giám định tư pháp năm 2012 được ban hành, tại các địa phương đã có 61/63 tỉnh/thành phố đã thành lập Trung tâm Pháp y; 2 tỉnh là mô hình Phòng Giám định Pháp y thuộc Bệnh viện Đa khoa tỉnh (tỉnh Hải Dương) và Trung tâm Giám định Y khoa - Pháp y (tỉnh Quảng Bình).

Tuy nhiên, giai đoạn từ 2020 đến nay, do liên quan đến Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, một số tỉnh lại thực hiện sáp nhập Trung tâm Pháp y vào giám định y khoa hoặc vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh, cụ thể, hiện nay chỉ còn 55/63 tỉnh/thành phố hoạt động theo mô hình Trung tâm Pháp y (giảm 6 tỉnh so với năm 2018); 7 tỉnh hoạt động theo mô hình lồng ghép Trung tâm Pháp y - Giám định y khoa trực thuộc Sở Y tế (Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Quảng Bình, Hưng Yên, Bắc Kạn, Thừa Thiên Huế, Nam Định); 1 tỉnh hoạt động theo mô hình pháp y thuộc Bệnh viện Đa khoa tỉnh (Bắc Giang). Cũng theo Bộ Tư pháp, hệ thống pháp y tâm thần chỉ có ở ngành Y và từ khi Luật Giám định tư pháp năm 2012 có hiệu lực, hệ thống mạng lưới tổ chức pháp y tâm thần công lập được xây dựng theo mô hình Viện và các Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực trực thuộc Bộ Y tế, đến nay hệ thống gồm có 7 tổ chức trên cả nước.

Theo báo cáo của Bộ Tư pháp tại Hội nghị, quy định tại Điều 12 Luật Giám định tư pháp thì ở cấp Trung ương, tổ chức pháp y có ở cả ngành Y tế, Công an và Quân đội; ở địa phương chỉ có 1 tổ chức giám định pháp y là Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế và có giám định viên pháp y làm giám định pháp y tử thi ở một số Phòng Kỹ thuật hình sự. Hệ thống tổ chức giám định pháp y trong ngành Y tế là chủ lực trong hệ thống tổ chức giám định pháp y. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, vì một số lý do, lực lượng pháp y ở công an và y tế tại hầu hết các địa phương không còn có sự phối hợp, điều tiết trong việc tiếp nhận, thực hiện giám định. “Giám định tư pháp là hoạt động chuyên môn ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề phục vụ hoạt động điều tra, truy tố và xét xử giải quyết các vụ việc, vụ án, phụ thuộc vào nhu cầu của hoạt động tố tụng. Trong bối cảnh hiện nay, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp đòi hỏi phải có sự phối hợp, thông tin kịp thời, thông suốt, thống nhất về nhận thức và chủ động, tích cực về hành động của “cộng đồng trách nhiệm” các cơ quan quản lý nhà nước (chung và từng chuyên ngành) và cơ quan tiến hành tố tụng ở các cấp”, theo Bộ Tư pháp.

Từ góc độ ngành Y tế, Bộ Y tế cho biết, các cơ sở pháp y của ngành Y tế hiện đang phát triển theo 3 mô hình (Trung tâm Pháp y; lồng ghép Trung tâm Pháp y - Giám định y khoa trực thuộc và Sở Y tế và mô hình pháp y thuộc Bệnh viện Đa khoa tỉnh), do vậy có nhiều bất cập, mất đi tính độc lập của cơ sở giám định tư pháp, chậm trong đáp ứng các yêu cầu của cơ quan trưng cầu, khó hòa nhập và phát triển ổn định. “Hiện chưa có Quy chế phối hợp giữa Trung tâm Pháp y cấp tỉnh với Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh, thành phố và các cơ quan có liên quan trong việc tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định pháp y tử thi. Các Bộ, ngành liên quan xem xét xây dựng cơ chế phối hợp phù hợp để các cơ sở giám định pháp y cùng phát triển, hỗ trợ ngày càng tốt hơn cho công tác đấu tranh với tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng và nhu cầu giám định tư pháp của người dân”, theo Bộ Y tế.

Có thể thấy, vấn đề “tính độc lập và cơ chế phối hợp - hai vấn đề quan trọng để pháp y phát triển” không chỉ là vấn đề được nêu trên bàn hội thảo. Ngày 27/5/2022, Đoàn kiểm tra công tác pháp y của Bộ Y tế đã làm việc tại tỉnh Lạng Sơn cùng với đại diện Viện Pháp y quốc gia, Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an. Tại đây vấn đề về cơ chế phối hợp giữa các tổ chức giám định cũng được đặt ra. Theo đó, Đoàn kiểm tra đã giao Trung tâm Pháp y tỉnh làm đầu mối phối hợp Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh nghiên cứu, đề xuất báo cáo lãnh đạo Sở Y tế và Công an tỉnh xem xét, phê duyệt chương trình phối hợp công tác Pháp y Công an và Y tế. Đề nghị Viện Pháp y quốc gia, Trung tâm Giám định Pháp y, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an tích cực hỗ trợ chuyên môn nghiệp vụ giám định, tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn trên địa bàn.

Từ góc nhìn chuyên môn, bà Nguyễn Thị Ngọc Yến - Giám đốc TTPYHN nêu quan điểm: “Nếu trên cùng địa bàn có nhiều tổ chức giám định công lập có chức năng, nhiệm vụ giám định như nhau hoặc cùng lĩnh vực giám định thì nên có cơ chế phối hợp hoặc nghiên cứu phương án thống nhất các tổ chức, trong đó quản lý nhà nước thuộc hệ thống tư pháp, chuyên môn sẽ do các Bộ, ngành chuyên môn đảm nhiệm để tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, cũng như lãng phí nhân lực, cơ sở vật chất”.

Thực trạng các chính sách khuyến khích đối với lĩnh vực sự nghiệp công

Dịch vụ sự nghiệp công được hiểu là những dịch vụ thiết yếu đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, cộng đồng dân cư mà nhà nước phải tổ chức thực hiện, bao gồm các hoạt động cung ứng những dịch vụ mang tính chất phúc lợi xã hội thiết yếu, cơ bản cho người dân như: giáo dục, văn hóa, khoa học, y tế, thể dục - thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội...

Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không nhất thiết phải là chủ thể trực tiếp cung ứng tất cả các dịnh vụ công và cũng không độc quyền cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước có thể ủy quyền cho các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, tư nhân cung ứng các dịch vụ công như: y tế, giáo dục, cấp thoát nước, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn... trên cơ sở tuân thủ các tiêu chuẩn, quy định của pháp luật.

Thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển lĩnh vực sự nghiệp công, việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực sự nghiệp công đã được tích cực triển khai thực hiện, hệ thống pháp luật đã từng bước được hoàn thiện. Đến nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về trong lĩnh vực sự nghiệp công đã được ban hành tương đối đầy đủ. Theo nhiệm vụ được giao, các bộ quản lý ngành, lĩnh vực đã tham mưu, xây dựng, trình Chính phủ để trình Quốc hội ban hành 02 luật và ban hành theo thẩm quyền các nghị định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL); về cơ chế tự chủ tài chính của ĐVSNCL; về vị trí việc làm, biên chế viên chức; về chính sách tinh giản biên chế; về tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức, hợp đồng lao động trong ĐVSNCL... Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng để các bộ, ngành, địa phương, ĐVSNCL thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tổ chức các ĐVSNCL; quản lý biên chế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hoàn thiện cơ chế tài chính, đẩy mạnh tự chủ của ĐVSNCL...

Bên cạnh đó, thực tiễn phát triển trong bối cảnh đa dạng hóa phương thức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công là xu hướng lớn trong đổi mới quản trị công trên thế giới trong những thập niên gần đây. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã chủ trương và dành nhiều cơ chế chính sách nhằm khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động dịch vụ sự nghiệp công để thực hiện mục tiêu về mở rộng, thu hút các nguồn lực, tiềm năng đầu tư trong xã hội và nâng cao chất lượng, số lượng của các loại hình dịch vụ sự nghiệp công. Do đó, để đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích đầu tư của xã hội tham gia thành lập các cơ sở cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, qua đó, dần tạo lập cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các chính sách ưu tiên dành cho các lĩnh vực này; đồng thời, qua quá trình triển khai thực hiện, để phù hợp với thực tiễn phát sinh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10/10/2008 về Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường được hưởng chính sách khuyến khích phát triển xã hội hóa theo quy định của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ; trong quá trình thực hiện, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 693/QĐ-TTg ngày 06/5/2013 và Quyết định số 1470/QĐ-TTg ngày 22/7/2016 để sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1466/QĐ-TTg nêu trên nhằm giải quyết các vướng mắc và phù hợp với thực tiễn phát triển.

Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và trong thực hiện các giải pháp khuyến khích phát triển xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, cùng với các chính sách ưu đãi về thuế xuất - nhập khẩu, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, tiền thuê đất thì pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cũng ưu tiên áp dụng các chính sách ưu đãi thuế ở mức cao nhất dành cho lĩnh vực này. Cụ thể, theo quy định của Luật Thuế TNDN hiện hành và các văn bản hướng dẫn sau:

- Áp dụng khoản thu nhập được miễn thuế TNDN đối với phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó theo quy định của luật chuyên ngành về lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác; Khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hóa, nghệ thuật, từ thiện, nhân đạo và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam;

- Áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời gian hoạt động đối với: Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường; đáp ứng các tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực xã hội hóa; trường hợp thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn thì được miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo.

Ngoài ra, doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đối với các khoản tài trợ cho giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học; khoản chi của doanh nghiệp cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp.

Bên cạnh các chính sách của trung ương, các tỉnh, thành phố cũng đã quan tâm đến việc triển khai thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa; một số địa phương đã ban hành các chính sách ưu đãi đặc thù để khuyến khích và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở xã hội hóa phù hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương.

Có thể thấy, việc thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích xã hội hóa đã mang lại nhiều kết quả tích cực như: (i) Bước đầu đã thay đổi nhận thức của xã hội trong việc sử dụng các dịch vụ sự nghiệp công do đơn vị sự nghiệp ngoài công lập cung ứng; (ii) Góp phần mở rộng mạng lưới, thu hút các nguồn vốn đầu tư ở trong nước và nước ngoài tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công; (iii) Đa dạng hoá loại hình, phương thức hoạt động và sản phẩm dịch vụ trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, tạo sự cạnh tranh, phát triển kỹ thuật, thúc đẩy nâng cao chất lượng, góp phần giảm áp lực, sự quá tải trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp của các ĐVSNCL, Từng bước đáp ứng được một phần nhu cầu sử dụng dịch vụ chất lượng cao của một bộ phận dân cư; (iv) Khuyến khích các cơ sở sự nghiệp công lập chủ động, phát huy sáng tạo trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư của xã hội thông qua huy động vốn, liên doanh, liên kết để mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ và góp phần tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức đơn vị; (v) Góp phần giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước (NSNN) trong việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công.

Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện chính sách cũng phát sinh một số hạn chế. Cụ thể là, mức độ xã hội hóa trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công là không đồng đều, thường chỉ tập trung ở một số lĩnh vực, loại hình dễ thu lợi nhuận như lĩnh vực giáo dục (bậc mầm non, đại học), y tế (chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh) và tại các địa bàn có điều kiện kinh tế phát triển, chủ yếu ở các thành phố lớn, hạn chế về khả năng tiếp cận dịch vụ cho người dân khu vực khó khăn, xa xôi, hẻo lánh. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ sự nghiệp công chưa đầy đủ, thiếu thống nhất, chậm được sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chính sách chưa đủ hấp dẫn để thu hút nguồn lực xã hội đầu tư vào khu vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là những địa bàn khó khăn. Một số địa phương có tốc độ phát triển kinh tế cao, nguồn thu ngân sách lớn nhưng chưa tính đến các chính sách đầu tư cho hạ tầng xã hội, đặc biệt là chính sách xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.

Riêng về chính sách thuế TNDN, theo quy định của Luật TNDN hiện hành, ĐVSNCL có hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế TNDN xác định được doanh thu, chi phí, thu nhập thì phải nộp thuế TNDN như các doanh nghiệp thông thường; trường hợp các đơn vị này hạch toán được doanh thu nhưng không xác định được chi phí, thu nhập của hoạt động kinh doanh thì kê khai nộp thuế TNDN tính theo tỷ lệ phần trăm trên toàn bộ doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ do Chính phủ quy định mức tỷ lệ % cụ thể. Pháp luật về thuế TNDN hiện hành chưa có chính sách ưu đãi dành cho các ĐVSNCL. Trong khi đó, đối với trường hợp các tổ chức khác (không phải ĐVSNCL) có thực hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công để thúc đẩy việc xã hội hóa (các bệnh viện tư nhân, trường học dân lập...), Luật Thuế TNDN hiện hành đã quy định mức ưu đãi cao nhất.

Ngoài ra, nhiều ĐVSNCL vừa thực hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công có sử dụng kinh phí NSNN, vừa cung cấp dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí NSNN và các dịch vụ khác. Trong trường hợp có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (bao gồm cả hoạt động trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo) mà ĐVSNCL tự quyết định mức giá theo nguyên tắc giá thị trường hoặc liên doanh, liên kết để thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận thì việc quy định khoản thu nhập này phải nộp thuế TNDN theo quy định như hoạt động kinh doanh bình thường khác là hợp lý. Tuy nhiên, đối với những dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN mà giá dịch vụ cung ứng vẫn chưa tính đủ chi phí nên NSNN vẫn hỗ trợ phần chi phí chưa kết cấu trong giá, không phải là hoạt động kinh doanh tạo lợi nhuận và đối với những loại dịch vụ do các ĐVSNCL cung ứng là dịch vụ cơ bản, thiết yếu, có ảnh hưởng đến an sinh xã hội, tác động đến toàn bộ người dân, việc đặt vấn đề phải nộp thuế TNDN như hiện hành đối với các ĐVSNCL này là chưa phù hợp.

Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp

Tiếp tục khẳng định chủ trương về phát triển lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công gắn với đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL, tại Văn kiện Báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng về Chiến lược phát triển 10 năm 2021-2030 chỉ rõ phải nâng cao tính tự chủ của các ĐVSNCL; đẩy mạnh xã hội hóa; khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công; tập trung phát triển mạnh một số ngành dịch vụ như y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao… Tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; hoàn thiện thế chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả dịch vụ công cơ bản. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ thị trường; xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các loại hình kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ công; kiểm soát độc quyền và bảo vệ người sử dụng.

Gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 91/NQ-CP ngày 18/6/2024 về việc đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ sự nghiệp công. Trong đó, để khắc phục các tồn tại, bất cập trong công tác xã hội hóa và tiếp tục thu hút, mở rộng các nguồn lực đầu tư trong xã hội, tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ sự nghiệp công phát triển với số lượng và chất lượng cao hơn, thực hiện cơ cấu lại NSNN, một trong những nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu là tập trung hoàn thiện các chính sách ưu đãi khuyến khích xã hội hóa cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cùng với đó là thực hiện sắp xếp, tổ chức lại các ĐVSNCL và hoàn thiện cơ chế khuyến khích xã hội hóa tại các ĐVSNCL.

Qua rà soát các chính sách ưu đãi khuyến khích xã hội hóa và các lĩnh vực xã hội hóa để kịp thời trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung đảm bảo phù hợp với thực tiễn phát sinh, tạo điều kiện hỗ trợ cho các ĐVSNCL cũng như đơn vị ngoài công lập, nhà đầu tư tham gia đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, đặc biệt là các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản thiết yếu sử dụng NSNN, dịch vụ công sử dụng NSNN tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nhằm cụ thể hóa chủ trương, định hướng về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL theo các định hướng của Đảng và Nhà nước đã đề ra, tại dự thảo Luật Thuế TNDN (sửa đổi) đã được nghiên cứu, bổ sung thêm các chính sách ưu đãi nhằm đẩy mạnh khuyến khích phát triển lĩnh vực này, cụ thể là:

Thứ nhất, bổ sung quy định về thu nhập được miễn thuế TNDN đối với:

- Khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong trường hợp cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, qua đó củng cố cơ sở pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới các đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, góp phần tháo gỡ khó khăn vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thời gian qua đối với hoạt động này.

- Thu nhập của ĐVSNCL từ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, bao gồm: Dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN do cơ quan có thẩm quyền ban hành; Dịch vụ sự nghiệp công mà nhà nước phải hỗ trợ, đảm bảo kinh phí hoạt động do chưa tính đủ chi phí cung cấp dịch vụ trong trong giá dịch vụ; Dịch vụ sự nghiệp công tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Ngoài ra, để tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng thu nhập miễn thuế đối với phần lợi nhuận để lại để đầu tư phát triển của cơ sở xã hội hóa, đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các hoạt động kinh tế có cùng bản chất, đảm bảo chính sách được minh bạch và ổn định song cũng cần có sự linh hoạt để phù hợp với thực tiễn phát sinh, tại dự thảo Luật Thuế TNDN (sửa đổi) cũng giao Chính phủ quy định tỷ lệ thu nhập để lại tối thiểu không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa cho phù hợp với thực tiễn.

Thứ hai, bổ sung quy định giảm thuế TNDN theo hướng ĐVSNCL cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được giảm 50% số thuế TNDN đối với thu nhập từ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Thứ ba, tiếp tục duy trì các chính sách ưu đãi thuế (về thuế suất ưu đãi, về thời gian miễn, giảm thuế) ở mức cao nhất như hiện nay đối với các cơ sở thực hiện XHH.

Thứ tư, tiếp tục áp dụng phương pháp tính thuế đơn giản đối với đơn vị sự nghiệp có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế TNDN mà các đơn vị này hạch toán được doanh thu nhưng không xác định được chi phí, thu nhập của hoạt động sản xuất, kinh doanh và giao Chính phủ quy định mức tỷ lệ cụ thể để đảm bảo phù hợp với thực tế hoạt động của các đơn vị này.

Các chính sách nêu trên khi được thông qua và áp dụng vào thực tiễn sẽ góp phần khuyến khích cũng như thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa xã hội hóa cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, đặc biệt là các dịch vụ công cơ bản thiết yếu sử dụng NSNN, dịch vụ công sử dụng NSNN tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; góp phần thúc đẩy các ĐVSNCL đổi mới phương thức quản lý, nâng cao chất lượng, gián tiếp góp phần làm giảm giá thành dịch vụ sự nghiệp công cung ứng cho người dân, nâng cao khả năng tiếp cận các loại hình dịch vụ công cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa.

Đối với Nhà nước, việc thực hiện theo phương án đề xuất sẽ góp phần đảm bảo định hướng phát triển đồng đều các vùng miền, đảm bảo các dịch vụ công được cung cấp đầy đủ ở các vùng có địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và khó khăn; Giảm áp lực về đầu tư cung ứng dịch vụ sự nghiệp công từ NSNN, dành nguồn lực ngân sách để chi cho các lĩnh vực cần ưu tiên khác; các ĐVSNCL có thêm nguồn lực để đầu tư mở rộng, đa dạng hóa loại hình dịch vụ công cung ứng cho xã hội; Tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với các loại hình dịch vụ công với chi phí thấp hơn, góp phần cụ thể hóa chủ trương tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Trung ương.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 11/2024

Ngày 11/12, tại Quảng Ninh, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ V với chủ đề “Sáng tạo ứng dụng số để phát triển kinh tế số - Động lực cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động”.

Dự và phát biểu tại Diễn đàn, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chúc mừng các đơn vị đã đạt được Giải thưởng sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam năm 2023, đồng thời đặt kỳ vọng vào sự phát triển nhanh chóng của lực lượng doanh nhân, doanh nghiệp công nghệ số tại Việt Nam, với những giải pháp, công nghệ, ứng dụng số không ngừng đem đến sự đổi mới, bứt phá cho tất cả các lĩnh vực, mọi mặt kinh tế - xã hội, có những sản phẩm mang tầm cỡ quốc gia, khẳng định vị trí của Việt Nam trên thế giới.

Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, Diễn đàn là thời điểm để nhìn lại, tổng kết, đánh giá sự phát triển, tôn vinh các doanh nghiệp công nghệ số tiêu biểu thông qua Giải thưởng sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam. Đây là những sản phẩm công nghệ số xuất sắc được thiết kế, sáng tạo và làm ra tại Việt Nam, có tác động, ảnh hưởng lớn trong việc đưa hoạt động của người dân, doanh nghiệp và chính quyền lên môi trường số, góp phần thúc đẩy phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Nhìn lại chặng đường 4 năm qua, từ năm 2019 đến nay, ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam đã có những bước phát triển và trưởng thành rất đáng khích lệ. Số lượng doanh nghiệp công nghệ số tăng 30%, doanh thu công nghiệp công nghệ số tăng 32%, tỷ trọng Make in Vietnam - Làm ra tại Việt Nam của các sản phẩm công nghiệp công nghệ số tăng từ 21% lên 29%. Riêng lĩnh vực sản xuất phần mềm cho nước ngoài tăng trưởng 43%, với 1.400 doanh nghiệp, doanh thu tiến dần đến mốc 10 tỷ USD.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam từ nay có một sứ mệnh mới là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua sáng tạo các ứng dụng số, chuyển đổi số cho các ngành, các lĩnh vực. Phát triển kinh tế số các ngành cũng chính là cách để tăng năng suất lao động.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2024 cũng là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện Chiến lược Quốc gia về phát triển Công nghiệp bán dẫn. Đây là ngành công nghiệp nền tảng và không chỉ có vậy, đó còn là ngành công nghiệp trọng yếu quốc gia trong 30 - 50 năm tới.

Người đứng đầu Bộ Thông tin và Truyền thông cũng nhấn mạnh, phát triển Công nghiệp bán dẫn cũng là cơ hội để Việt Nam dựng lại ngành công nghiệp điện tử nước nhà (như thiết điện tử tiêu dùng, thiết bị điện tử y tế, thiết bị điện tử công nghiệp,...), nhất là khi ngành này đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sang thiết bị điện tử AI, thiết bị IoT.

Công nghiệp bán dẫn cũng là cốt lõi của công nghiệp Chuyển đổi Số, Công nghiệp Chuyển đổi Số là thị trường lớn nhất của chip bán dẫn. Việt Nam có tới 100 triệu dân, là một thị trường lớn, lại đang ở giai đoạn phát triển nhanh, công nghiệp hoá nhanh, chuyển đổi số nhanh, tiêu dùng điện tử nhiều, nên sẽ là một bối cảnh thuận lợi cho ngành Công nghiệp bán dẫn nước nhà.

"Công nghiệp bán dẫn là một chuỗi cung ứng, một hệ sinh thái có tính toàn cầu. Chúng ta sẽ phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam trong một hệ sinh thái trong nước và toàn cầu. Vừa có tự chủ, vừa có hợp tác quốc tế. Nhưng Việt Nam vẫn phải tiến tới một chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, không chỉ là một vài công đoạn. Công nghệ đang thay đổi rất nhanh, có thể còn nhanh hơn. Chỉ có một chuỗi cung ứng quốc gia đầy đủ thì mới đáp ứng được tốc độ nhanh và giá thành thấp," Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.

Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ V là sự kiện nhằm truyền tải những tư tưởng cốt lõi về phát triển công nghệ số, tinh thần Make in Viet Nam, ứng dụng số để giúp tăng doanh thu, lợi nhuận và năng suất lao động; phát triển doanh nghiệp công nghệ số góp phần đưa Việt Nam thành nước phát triển nhanh và bền vững, phát triển bao trùm, thoát bẫy thu nhập trung bình.

Diễn đàn bao gồm một phiên chính và các phiên chuyên đề. Tại phiên chính, các diễn giả chia sẻ các câu chuyện thành công trong việc ứng dụng số, tạo ra các sản phẩm số ứng dụng trong thực tiễn, giúp thay đổi Việt Nam, thay đổi thế giới. Tại các phiên chuyên đề, các diễn giả sẽ trao đổi, thảo luận về việc phát triển các sản phẩm dựa trên công nghệ mới như Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn và việc đưa chúng ra thị trường trong nước và quốc tế.

Các diễn giả cũng trao đổi, thảo luận về những rào cản, thách thức và giải pháp đột phá để cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm, giải pháp, dịch vụ trên nền tảng các công nghệ số mới cho thị trường.

Cũng tại Diễn đàn, Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức Lễ công bố và trao Giải thưởng sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam năm 2023 nhằm tôn vinh các doanh nghiệp, tổ chức trong nước đã có sản phẩm, giải pháp và dịch vụ công nghệ số xuất sắc.

Bên lề Diễn đàn có các triển lãm trưng bày, giới thiệu, trải nghiệm trực tiếp về các sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam, thể hiện năng lực của các doanh nghiệp công nghệ số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số./.