Khi vẽ tranh về đề tài gia đình, bạn nên lưu ý kích thước, tỷ lệ các thành viên trong gia đình sao cho cân đối. Đồng thời, các hoạt động, biểu cảm của mỗi người rất quan trọng. Bạn cần tạo ra sự gắn kết giữa các thành viên, thể hiện ý nghĩa của bức tranh hướng tới một gia đình hạnh phúc.

Gợi ý chi tiết khung cảnh xung quanh

Để bức tranh gia đình thêm chân thực, sinh động, bạn cần vẽ chi tiết khung cảnh xung quanh. Nếu vẽ gia đình đang ăn cơm thì xung quanh cần có tủ bếp, sàn gạch,… Hay vẽ tranh gia đình đang gói bánh chưng thì xung quanh sẽ có cây đào, thể hiện không khí rộn ràng của ngày tết,… Dựa vào từng tình huống, chủ đề của bức tranh mà vẽ chi tiết xung quanh sao cho tương xứng. Như vậy, bức tranh gia đình mới trở nên gần gũi, thân mật.

Cuối cùng, tô màu là bước không thể thiếu trong vẽ tranh nhằm tôn lên vẻ đẹp của các thành viên trong gia đình. Bạn có thể lựa chọn tô màu sáp, màu nước, chì màu,… Khi tô màu, không nên làm nổi bật tất cả, chi tiết phụ sẽ tô nhạt hơn chi tiết chính. Cần kết hợp màu sắc hài hoà, tránh làm bức tranh trở nên rối mắt.

Những dụng cụ cần chuẩn bị trước khi vẽ tranh

Trước khi thực hiện vẽ tranh, bạn cần chuẩn bị dụng cụ đầy đủ. Như vậy quá trình vẽ tranh diễn ra thuận tiện, không phải tốn thời gian vừa vẽ vừa tìm dụng cụ. Những đồ dùng cần chuẩn bị để vẽ tranh gia đình như:

Giấy: Tuỳ thuộc vào mục đích vẽ tranh của bạn mà lựa chọn loại giấy có kích thước phù hợp. Bên cạnh đó, nếu chọn loại giấy trơn sẽ dùng màu sáp và màu dạ. Còn nếu vẽ trên loại giấy nhám mặt thì cần tô màu nước.

Bút chì là dụng cụ không thể thiếu dùng để phác thảo. Bạn nên chọn bút chì loại 2B, tránh dùng chì có nhiều dầu sẽ gây bết.

Tẩy gôm mềm để xoá những chi tiết không cần thiết. Lưu ý, nên hạn chế tẩy xoá tránh gây rách giấy.

Màu: Dựa vào sở thích, khả năng tô màu của bạn mà chọn màu sáp, màu nước, màu chì sao cho phù hợp.

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TP - Tại Trung Quốc, nhiều đàn ông đã trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình. Các nhà lập pháp Trung Quốc đang dần nhận thức được tính nghiêm trọng và cấp bách của việc bảo vệ các nạn nhân là nam giới trong các vụ bạo lực gia đình.

Theo “Kinh Hoa thời báo”, ngày 30/11/2016, ông Trương ở Môn Đầu Kiều, Bắc Kinh đến tòa án khởi tố vợ và xin ly hôn vì không chịu nổi bạo hành thân thể từ phía bà vợ. Sau khi điều tra xem xét; ngày 3/12/2016 tòa án đã ra quyết định cấm mọi hành vi bạo lực và quấy rối của bà vợ đối với ông.

Tòa án cho rằng, việc ông Trương xin được bảo hộ phù hợp với quy định về điều kiện xin được bảo hộ trong “Luật chống bạo lực gia đình” nên đã đưa ra quyết định trên. Đây là trường hợp đầu tiên tòa án thành phố Bắc Kinh áp dụng lệnh bảo vệ đối với một đương sự là đàn ông.

Tại An Huy, ngày 31/8/2016 các nhân viên tòa án đã cùng cảnh sát Dĩnh Nam và các cán bộ hội phụ nữ tiến hành thông báo Lệnh bảo hộ thân thể theo yêu cầu của một người chồng. Đây là quyết định đầu tiên kiểu này ở An Huy.

Theo báo chí, hai vợ chồng ông Khương và bà Trịnh xảy ra mâu thuẫn trong 2 năm gần đây do vấn đề kinh tế và con cái, thường xuyên xảy ra tranh chấp, sau phát triển thành vũ lực, ông Khương tuổi cao và yếu hơn nên thường bị vợ đánh đập.

Ở Đan Đông, Liêu Ninh, đầu năm 2016 xảy ra vụ ông chồng Lưu Cương bé nhỏ không may mắn vì bà vợ Triệu Hân vốn là đô vật nữ. Lúc đầu họ sống với nhau hạnh phúc, nhưng sau khi mở một quán ăn thì bà vợ thay đổi hẳn.

Lưu Cương thì tất bật phục vụ, làm đủ mọi việc; bà vợ chỉ ngồi thu tiền, tán gẫu với khách rồi còn có quan hệ mờ ám với khách. Lưu Cương thấy khó chịu, đầu tiên họ cãi nhau, rồi tiến tới “võ đấu”. Mỗi lần ẩu đả, Lưu Cương đều là kẻ chịu thiệt vì không địch nổi vợ. Ông muốn ly hôn nhưng con còn nhỏ, đành cứ mỗi lần bị đánh lại gọi cảnh sát đến cứu.

Hình nhân để các nạn nhân bạo lực gia đình trút giận.

Tư liệu của Hội phụ nữ Tứ Xuyên cho thấy, trong số 1.845 đơn thư kêu cứu vì nạn bạo lực gia đình, chỉ có 2% là của các ông chồng, trong khi thực tế tỷ lệ lớn hơn nhiều. Luật sư Dương Thiệu Cương, một người tham gia nhiều vụ án về bạo lực gia đình cho biết: Nói đến bạo lực gia đình, người ta thường nghĩ ngay đến những người bị hại là phụ nữ và trẻ em.

Trên thực tế, đàn ông cũng trở thành nạn nhân của tệ nạn này, nhiều nhất là “bạo lực lạnh” như khinh rẻ, nhục mạ, mà kiểu “bạo lực lạnh” này nhiều khi còn gây nên hậu quả nghiêm trọng hơn cả bạo hành thân thể.

Khi phụ nữ bị bạo hành, họ thường tìm kiếm sự bảo vệ ở bạn bè thân hữu hoặc trình báo chính quyền, cơ quan pháp luật; còn khi đàn ông bị bạo hành thường nhẫn chịu hoặc giải quyết bằng cách xin ly hôn, rất ít người tố giác hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ, bảo vệ từ người khác.

Việc ra đời “Luật chống bạo lực gia đình” đã tạo căn cứ pháp luật hữu hiệu để họ bảo vệ mình, nhưng trong đời sống thực tế, hiện tượng đàn ông bị bạo hành luôn bị coi nhẹ.

Báo “Trùng Khánh buổi sáng” đưa tin, theo kết quả điều tra của một cơ quan công ích, trong số những người đàn ông được hỏi, có tới 80% nói đã từng bị bạo lực gia đình, chủ yếu là “bạo lực lạnh”, kế đó là bị cào cấu, túm tóc, số ít bị vật cứng tác động vào cơ thể.

Luật hình sự sửa đổi thực thi từ ngày 1/11/2015 lần đầu tiên mở rộng đối tượng bị xâm hại của tội “dâm ô” từ “phụ nữ” thành “người khác”, về bản chất là đã đưa nạn nhân là nam giới vào phạm vi bảo hộ của pháp luật.

Việc sửa đổi này cho thấy các nhà lập pháp Trung Quốc đang dần nhận thức được tính nghiêm trọng và cấp bách của việc bảo vệ các nạn nhân là nam giới trong các vụ án loại này.

Vì vậy, đã đến lúc những nạn nhân giới mày râu cần dũng cảm đứng lên sử dụng biện pháp pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; bảo vệ bản thân, cũng là giúp đỡ cả xã hội.

Đúng ngày Quốc tế phụ nữ (8/3), Trung tâm Tỵ nạn bạo lực gia đình thành phố Thẩm Dương đã khánh thành đưa vào sử dụng. Điều bất ngờ là trong trung tâm có một khu ở riêng cho các ông chồng bị vợ bạo hành với những đồ dùng sinh hoạt đầy đủ.

Một số quy định pháp luật về bạo lực gia đình

Bạo lực được hiểu là dùng sức mạnh để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế, bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, trẻ em.

Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là: “hành vi cố ý củathành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” (Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007).Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với nhiều dạng thức khác nhau.

* Có thể nhận diện bạo lực gia đình ở những hình thức chủ yếu sau:

- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làmtổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ.

- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình.

- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động…).

- Bạo lực về tình dục: là tất cả các hành vi mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con. Bạo lực về tình dục là vấn đề khá tế nhị, người ta thường hay giấu nhưng nó xảy ra khá nhiều và gây hậu quả làm đổ vỡ gia đình.

* Đối tượng bạo lực và bị bạo lực:Bạo lực giữa vợ, chồng với nhau; bạo lực giữa cha mẹ và con cái; bạo lực giữa các thành viên khác trong gia đình.

* Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau.Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 đã quy định các hành vi bạo lực bao gồm:

- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;

- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

2. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007, nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình gồm: “Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”.

3. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể

3.1.Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình:được quy định cụ thể tại Điều 5 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm:

1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:

a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;

b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;

c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;

d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này;

đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.

Nạn nhân bạo lực gia đình, những người bị chính người thân của mình gây ra những tổn thương nhất định, rất cần được sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội. Khi hành vi bạo lực đã xảy ra trong gia đình thì những thành viên gia đình vì những mối quan hệ với người thực hiện hành vi bạo lực sẽ rất khó có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt khoát cần thiết để bảo vệ nạn nhân. Do đó, nạn nhân cần sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc quy định đây là quyền của nạn nhân, tức là nghĩa vụ của các chủ thể khác phải thực hiện là hoàn toàn đúng đắn.

Bên cạnh đó, rất nhiều trường hợp, nạn nhân bạo lực gia đình cần sự giúp đỡ về y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật. Những tổn thương về thể chất có thể chữa lành bằng sự chăm sóc y tế, nhưng với tổn thương về tâm lý, nạn nhân không dễ dàng vượt qua được. Những sợ hãi, hoang mang, khủng hoảngcó thể theo họ một thời gian dài, khiến họ không lấy lại sự cân bằng trong cuộc sống. Họ rất cần được tư vấn tâm lý để vượt qua những nỗi ám ảnh này, họ cần được biết rằng họ không có lỗi trong việc để hành vi bạo lực gia đình xảy ra, được hướng dẫn phải xử sự như thế nào khi những hành vi này tiếp diễn. Đặc biệt, họ cần biết những quy định của pháp luật về vấn đề này để nâng cao khả năng tự bảo vệ trong những trường hợp tương tự.

Ngoài ra, nạn nhân cũng cần có một nơi để tạm lánh để có thời gian cách li nhất định với người thực hiện hành vi bạo lực. Điều này có tác dụng làm cho cả hai bên có thời gian, cơ hội để nhìn nhận sự việc một rõ ràng hơn, bình tĩnh hơn. Với những kẻ thực hiện hành vi bạo lực một cách côn đồ, hung hãn, không có điểm dừng thì nơi tạm lánh này là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ nạn nhân.

Tuy nhiên, bên cạnh những quyền lợi như vậy, nạn nhân bạo lực gia đình cũng phải thực hiện nghĩa vụ nhất định, đó là:cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu. Do tính chất nhạy cảm của tội phạm, cũng như mối quan hệ đặc biệt của các chủ thể, pháp luật không đặt ra nghĩa vụ của nạn nhân trong việc phòng chống bạo lực gia đình hay tố giác người có hành vi bạo lực–điều này hoàn toàn hợp lý. Vậy tại sao lại quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin của nạn nhân? Bởi vì bạo lực dù diễn ra trong gia đình nhưng lại ảnh hưởng tới sự phát triển chung của toàn xã hội, do đó cần phải được xử lý kịp thời; nạn nhân cả bạo lực cần được bảo vệ, nhưng họ cũng cần tự bảo vệ mình trong giới hạn nhất định, và đó có thể coi là trách nhiệm của họ với cộng đồng, xã hội.

3.2. Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình:Người có hành vi bạo lực gia đình là người đã gây ra những tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho thành viên khác trong gia đình. Tại Điều 4 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định rõ nghĩa vụ của họ, bao gồm:

1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực.

2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.

Trước hết, khi thực hiện hành vi bạo lực và bị phát hiện, người có hành vi bạo lực gia đình phải tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực. Tôn trọng sự can thiệp có nghĩa là người có hành vi bạo lực gia đình phải lắng nghe, thực hiện theo những yêu cầu chính đáng của cộng đồng, không được có thái độ hung hãn, chống đối hay có ý định trả thù sự can thiệp đó. Quy định này tưởng chừng như chung chung nhưng lại rất cụ thể và sâu sắc. Người có hành vi bạo lực gia đình không chỉ thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của cộng đồng mà còn phải tôn trọng sự can thiệp đó, nghĩa là bản thân họ phần nào nhận biết được tính đúng đắn của việc can thiệp, cũng như phải có thái độ đúng mực với những người can thiệp.

Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng là nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực. Trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình, những chủ thể có thẩm quyền có thể đưa ra những chế tài như: góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư, áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn…Việc bị xử lý hành vi bạo lực gia đình vốn không quen thuộc với người Việt, vì rất nhiều nghĩ đó là quyền của họ. Do đó, quy định người có hành vi bạo lực có nghĩa vụ chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là cần thiết để tạo ra cơ sở pháp lý mạnh mẽ, buộc chủ thể phải thực hiện, bảo đảm hiệu quả của công tác phòng, chống bạo lực gia đình.

Với những trường hợp nạn nhân bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cần tới sự can thiệp của y tế thì người thực hiện hành vi bạo lực phải kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. Đây tưởng chừng như điều hiển nhiên, là ứng xử bắt buộc của các thành viên gia đình đối với nhau, nhưng lại là điều rất khó thực hiện khi một bên là chủ thể, một bên là nạn nhân của hành vi bạo lực. Người có hành vi bạo lực khi đã nhẫn tâm ra tay thì rất khó có chuyện thương xót, lo lắng cho nạn nhân mà đưa họ đi chữa trị, chăm sóc; hoặc có khi họ nhận thấy sai lầm của mình nhưngdo sợ bị phát hiện, sợ phải gánh trách nhiệm nên không dám đưa nạn nhân tới cơ sở chữa trị.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không nhắc tới quyền mà chỉ quy định nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình. Điều này trước hết có lẽ bởi vì những người này đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nên họ phải chịu những trách nhiệm nhất định và không được hưởng sự bảo vệ của pháp luật trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận theo một khía cạnh thì có thể thấy: nghĩa vụ mà Luật nêu lên cũng đã hàm chứa một số quyền của họ: quyền nhận được sự can thiệp hợp pháp, quyền được thực hiện các hành động nhằm khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra. Nếu nhìn nhận một cách tổng quát, có thể thấy rằng những hành vi bạo lực gia đình xuất phát từ sự nhẫn tâm, tàn ác, đê hèn không nhiều mà do những quan niệm sai lầm, do thiếu hiểu biết, do không được trang bị kỹ năng giải quyết tranh chấp hoặc do nóng giận. Do đó, pháp luật cũng cần phải cho họ những cơ hội để giác ngộ, sửa chữa sai lầm, cũng là tạo cơ hội cho gia đình của họ được hàn gắn.

4. Xử lý vi phạm pháp luật về Phòng, chống bạo lực gia đình

Điều 42 Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định về xử lý người có hành vi viphạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình như sau:

1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

2. Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.

3. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

Như vậy, người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác nhau, cụ thể: Xử lý kỷ luật, Xử lý hành chính; Xử lý theo pháp luật dân sự; Xử lý theo pháp luật hình sự.

Vẽ tranh gia đình cũng là chủ đề được nhiều người quan tâm. Đối với mỗi người, gia đình luôn là nơi yêu thương, ấm áp để trở về. Vậy tranh gia đình có cách vẽ như thế nào? Những ý tưởng vẽ tranh về đề tài gia đình là gì? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của Hoàng Hà Mobile để có thêm thông tin chi tiết nhé!